HPV gây nhiễm tế bào da hoặc niêm mạc và nhân lên gây ra tổn thương (mụn cóc hay mụn cơm) sau thời kỳ nung bệnh khoảng từ 1 đến 2 tháng. Các tiến triển của tổn thương qua nhiều tháng (3-4 tháng) và không lây nhiễm vào lớp tế bào sâu hơn. ADN của virus có thể tồn tại bên trong tế bào niêm mạc và có thể tái hoạt động. Trong những khối u lành và ác tính đường sinh dục, genom của HPV vẫn tồn tại bên trong tế bào và liên quan đến các yếu tố tương tác. HPV týp l6 và týp 18 gây papilloma cổ tử cung, loạn sản và ung thư cổ tử cung, ít nhất có 85% ADN của HPV tích hợp vào gen tế bào.
Ngoài dạng tích hợp, ADN HPV còn tồn tại dạng plasmid, nhưng dạng tích hợp nhiều hơn là dạng plasmid. Sự tích hợp này gây ra bất hoạt của các gen El và E2 và do vậy sự sao mã là giới hạn trong các gen E6 và E7. E6 và E7 là các oncogen,chúng tạo nên các protein gắn và bất hoạt protein p53 (E6) và pl05RB (E7). Nếu các liên kết này không bị phá vỡ, nhiễm sắc thể dễ dàng đột biến và dưới sự tác động của một số yếu tô khác, tế bào sẽ dễ dàng chuyển thành ác tính.
Cơ chế mà do đó dẫn đến sự khỏi bệnh do papillomavirus hiện nay chưa rõ, nhưng người ta thấy rằng ồ những người bị đàn áp miễn dịch, bệnh do papillomavius bị nặng hơn những người khác.
- Polyomavirus phát tán từ đường hô hấp trên, định vị ở trong các niêm mạc và có thể lây nhiễm theo đường niệu dục.
Đáp ứng miễn dịch khi nhiễm HPV: kháng thể được tạo ra nhưng ít vai trò bảo vệ mà miễn dịch qua trung gian tế bào mối đóng vai trò quyết định làm cho bệnh nhân có thể hồi phục, cơ chế bảo vệ này dẫn đến tình trạng kiểm soát nhiễm trùng HPV.
ADN của HPV tồn tại bên trong các tế bào đáy của da hoặc niêm mạc bị nhiễm, dưới dạng tích hợp hoặc plasmid, khi bị NHIỄM HPV thể ân, hoặc duy trì và nó sẽ tái nhân lên, biệt hóa và giải phóng các hạt virus lây nhiễm. Ở những bệnh nhân bị đàn áp miễn dịch (như sau ghép cơ quan…) các virus tái hoạt động và gây tổn thương tiếp tục.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét