Xoắn khuẩn giang mai


       Bệnh giang mai (Syphilis) đã được biết từ lâu, song phải đến năm 1905 Schaudin và Hoffmann mối tìm thấy vi khuẩn trong dịch tiết ở vết loét giang mai và xác định nó chính là tác nhân gây bệnh. Bệnh giang mai có hai loại là giang mai mắc phải và giang mai bẩm sinh.

Bệnh giang mai

          ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC

          Hình thể
         Rất mảnh, đường kính 0,2 μm, dài 5- 15 μm. Quan sát sống dưới kính hiển vi nền đen: chuyển động xoay tròn gần như không di chuyển vị trí (Hình…)- Nhuộm Fontana- Tribondeau: vi khuẩn có màu vàng nâu, sóng hình sin.
         Tính chất nuôi cấy
        Cho đến nay chưa nuôi cấy được trên môi trường nhân tạo. Việc giữ chủng giang mai do Nichols phân lập năm 1911 từ một bệnh nhân bị giang mai liệt toàn thân, được thực hiện bằng cách cấy truyền liên tục trong tinh hoàn thỏ.
          Sức đề kháng

      Vi khuẩn giang mai rất nhạy cảm với điều kiện bên ngoài, nhất là khô và nóng: ở nhiệt độ >50°c bị chết trong vòng 60 phút; ở nhiệt độ phòng chỉ sống được vài giờ, do đó khó lây qua các dụng cụ bị nhiễm vi khuẩn; rất nhạy cảm với hóa chất như arsenic, thuỷ ngân, bismuth, với pH thấp và kháng sinh.

         KHẢ NĂNG GÂY BỆNH

       Các nhiễm khuẩn tự nhiên xoắn khuẩn giang mai chỉ xảy ra ở người. Các thực nghiệm trên thỏ hoặc khỉ, không gây thành bệnh giang mai.
       Bệnh giang mai mắc phải
       Có thể lây qua niêm mạc mắt, miệng hoặc da bị sây sát hoặc dụng cụ bị nhiễm nhưng những trường hợp này hiếm. Việc lây truyền chủ yếu là do tiếp xúc trực tiếp qua đường sinh dục. Xoắn khuẩn vào cơ thể, gây bệnh và bệnh được diễn biến qua 3 thời kỳ:

        Giang mai thời kỳ 1 (primary syphilis): từ 10-90 ngày sau khi nhiễm vi khuẩn.
        Bệnh tích chủ yếu là vết loét “săng” (chancre) ở bộ phận sinh dục; vết loét không ngứa, không đau, loét nông và chân cứng. Kèm theo có hạch rắn ở vùng lân cận. Trong dịch tiết của vết loét và dịch trong hạch có nhiều xoắn khuẩn. Đây là thời kỳ lây lan mạnh. Có điều trị hay không thì vết loét cũng khỏi và không để lại sẹo. Từ hạch bạch huyết, vi khuẩn vào máu.
          Giang mai thời kỳ 2 (secondary syphilis): từ 2- 12 tuần sau khi có săng.
           Biểu hiện: đa dạng, có thể nhức đầu, sốt nhẹ, rụng tóc… và điển hình là các thương tổn trên da như các loại sẩn, dát màu hoa đào (nốt hồng ban- roseola) có thể ở một chỗ hay toàn thân kể cả lòng bàn tay, bàn chân nhưng hay gặp nhất là ở cổ. Các nốt này xuất hiện nhiều lần và khỏi không đế lại dấu vết gì. Trong nốt hồng ban có rất ít vi khuẩn, song vẫn là thời kỳ lây lan mạnh. Một số bệnh nhân có thể chuyển sang thời kỳ 3.
         Giang mai thời kỳ 3 (tertiary syphilis): sau thời gian tiềm tàng từ vài năm cho đến vài chục năm. Tổn thương ăn sâu vào tổ chức, tạo nên các “gôm” (gumma) ở da, xương, gan, đặc biệt là tổn thương tim mạch và thần kinh trung ương (liệt). Hiếm thấy vi khuẩn trong gôm.
          Bệnh giang mai bẩm sinh
Phụ nữ có thai bị bệnh giang mai, xoắn khuẩn có thể qua rau thai vào thai nhi gây sảy thai, thai chết lưu, đẻ non hoặc đứa trẻ sinh ra đã mắc bệnh giang mai (giang mai bẩm sinh).
         Gây bệnh thực nghiệm
Có thể gây bệnh thực nghiệm cho thỏ bằng cách đưa vào trong da hay trong mắt. Tiêm truyền để nhân giống chủng giang mai dùng cho các phản ứng huyết thanh chẩn đoán phải đưa vào tinh hoàn thỏ. Sau khi tinh hoàn thỏ bị viêm, lấy dịch hoàn bị viêm tiêm vào tinh hoàn thỏ khác.


Từ khòa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật, triệu chứng viêm não nhật bản

0 nhận xét:

Đăng nhận xét