Sơ lược về Viruts bại liệt

        Bệnh bại liệt đã được mô tả sớm, khoảng 1600 năm trước công nguyên, nhưng mãi tới năm 1840, Hein mối chứng minh và xếp thành một bệnh riêng biệt. Năm 1949, Bodian, Sessel và Pait chứng minh được virus bại liệt có 3 týp huyết thanh:
Týp 1: giống điển hình là Brunhilde.
Týp 2: giống điển hình là Lansing.
Týp 3: giống điển hình là Leon.

Viruts bại liệt


        Cũng năm 1949, Ender, Weller và Robbins đã phát hiện được virus bại liệt có thể nhân lên trên tế bào bào thai người và tế bào thận khỉ.
          Bệnh bại liệt là một bệnh nhiễm trùng đường ruột cấp tính do virus gây ra. Virus bại liệt đặc biệt gây tổn thương các tế bào sừng trước tuỷ sống và các tế bào vận động của thần kinh trung ương. Trong vụ dịch, đa số’ là mắc bệnh nhẹ với các triệu chứng đường ruột và hô hấp, chỉ có một phần nhỏ có hội chứng liệt.

Viruts bại liệt 2


           CƠ CHẾ GÂY BỆNH
Nung bệnh: thời gian khoảng 5-6 ngày. Thời kỳ này không có triệu chứng gì rõ rệt.
Khởi phát: trung bình 2 – 3 ngày.
– Bệnh nhân có thể sốt 38 – 40°c nhưng không có co giật và rét run.
– Đau ở vùng sắp bị liệt.
Toàn phát
– Bệnh nhân xuất hiện liệt tối đa 48 giờ.
– Đặc điểm: liệt mềm.
Di chứng: bệnh bại liệt thường để lại di chứng tuỳ mức độ khác nhau:
– Cơ thoái hóa, teo nhỏ.
– Xương nhỏ không phát triển.
– Tàn tật vĩnh viễn.
            Thể không điển hình
Thể này không biểu hiện liệt, bệnh nhân chỉ có triệu chứng nhẹ về tiêu hóa, hô hấp, dễ bỏ qua. Đây là thể rất quan trọng về mặt dịch tễ học, vì là nguồn lây lan khó phát hiện để phòng ngừa. Số người bị thể này trong vụ dịch có thể gấp 100 lần thể có triệu chứng lâm sàng.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét